logo

LÒNG BÀN TAY VÀ NHỮNG CHI TIẾT LIÊN HỆ

LÒNG BÀN TAY VÀ NHỮNG CHI TIẾT LIÊN HỆ

(Theo bác sĩ J.Ranald)

Trong một bàn tay, ngón tay giữ phần chủ động, lòng bàn tay giữ phần thụ động, hay nói một cách khác, ngón tay là linh hồn, lòng bàn tay là thể xác.

Thể xác thiếu linh hồn, không hoàn thành được một con người, cũng như linh hồn thiếu thể xác, cũng chỉ là một ảo ảnh.

Do đó, ngón tay và lòng bàn tay phải tương quan liên hệ với nhau.

Ở những đoạn trên, chúng ta đã có những khái niệm tổng quát về các ngón tay, đoạn này sẽ đề cập đến lòng bàn tay.

Lòng bàn tay, ngoài giá trị những đường chỉ, dấu vết, những gò, còn có nhiều ý nghĩa khác do hình dáng và màu sắc của nó nói lên. Vì lòng bàn tay giữ phần chủ động, nên hình dáng và màu sắc lòng bàn tay là mấu chốt của sự xác định thực tiễn về sinh lực cũng như về khả năng khoái cảm của người.

Một lòng bàn tay đều đặn, no đủ, dịu và ấm chứng tỏ người hoạt bát, rõ ràng và sống động.

Sự mềm mại của lòng bàn tay chứng tỏ người trầm mặc, gần như uể oải trước mọi hoạt động.

Nếu lòng bàn tay mềm có nhiều đường chỉ nhỏ, người sẽ tiêu pha rất nhiều nhục dục.

Lòng bàn tay dày, mềm và dịu, người vô tư lự. Trường hợp tương tự cho một bàn tay nhiều thịt, người sẽ say mê sự xa hoa lộng lẫy.

Lòng bàn tay mỏng và hẹp, người nhút nhát, hẹp hòi, thiếu thông minh và nghị lực. Người có mẫu bàn tay này thưộc về người mê muội, ích kỷ.

Những ngón trong một lòng bàn tay hẹp chứng tỏ tính tình tráo trở, chuyên quyền, rất giới hạn trong sự giao tiếp.

Một lòng bàn tay có những gò thật nổi, người có tính nóng nảy và dễ cảm xúc.

Một lòng bàn tay bằng mặt, người thông minh.

Lòng bàn tay cân đối với các ngón, dài cũng như rộng, nếu nó đều đặn, không cứng, người sẽ hoà hoãn, chịu xét đoán, biết kiểm khảo với mình, và sử dụng tài ba của mình rất đúng chỗ.

Khi lòng bàn tay quá nảy nở vượt các ngón, người tự phụ và ích kỷ.

Nếu lòng bàn tay nảy nở ở cườm gần như dày cộm, người giàu dục tính. Trường hợp tương tự cho một lòng bàn tay cứng, người hung bạo trong dâm dục.

LÒNG BÀN TAY TRŨNG

Lòng bàn tay trũng là biểu hiện của sự thiếu kiên nhẫn, thiếu ý chí phấn đấu. Nó luôn luôn đi đôi với sự kém sút về tiền tài. Dĩ nhiên mẫu lòng tay như thế là nguồn gốc của sự bất hạnh, nhất là khi lòng bàn tay trũng lại gặp gang bàn tay thiếu nảy nở thì thật là xấu số, nếu không có những đường chỉ sửa đổi.

Kinh nghiệm cho thấy, thường thường chỗ trũng luôn luôn theo chiều của một đường chỉ, hay một gò nào đó. Trường hợp này ảnh hưởng sẽ nghiêng về những đường chỉ, hay gò mà chỗ trũng theo chiều.

Nếu chỗ trũng theo chiều đường sanh đạo, sẽ có nhiều rắc rối về gia cảnh. Nó theo chiều mạng đạo, sẽ có nhiều that vọng trong việc theo đuổi.

LÒNG BÀN TAY LỚN NHỎ

Hình thức lớn nhỏ của một lòng bàn tay cũng có một giá trị quan trọng.

Tuy nhiên nếu quan niệm lòng bàn tay lớn là bàn tay thông minh thì chỉ là quan niệm tưởng tượng, mà thiếu thực tế.

Thông thường khi một bàn tay lớn, nhất là lòng bàn tay này lại có thêm những ngón dài, người sẽ có thứ tự và thông minh chính đại. Còn thì, người cao kiến, tầm quan sát rộng, những mưu đồ đại sự đều có lòng bàn tay nhỏ.

Do đó, sự lớn nhỏ của một lòng bàn tay sẽ có liên hệ giá trị với những chi tiết chứa đựng trong lòng bàn tay, mà không tuyệt đối liên hệ về hình thức lớn nhỏ.

LÒNG BÀN TAY TRÁI VÀ MẶT

Vì lẽ có sự tương quan ảnh hưởng về việc sử dụng bàn tay của mỗi cá nhân, nên việc nghiên cứu giá trị một cá nhân sử dụng tay trái hay tay phải cũng cần phải được xác định.

Thông thường những sự nghiên cứu đều chỉ ngầm chỉ định sự sử dụng tay mặt (hay tay phải). Trường hợp này, tay mặt là hình ảnh của cá nhân trên thực tế, hay nói một cách khác, là bản năng cảu cá nhân ấy, bàn tay trái là sự đặt để thiêng liêng, hay định mệnh cũng thế. Dĩ nhiên đối với cá nhân sử dụng tay trái, sự nghiên cứu sẽ ngược lại, nghĩa là tay mặt là định mệnh, tay trái là bản năng.

Sự quan trọng của việc nghiên cứu những bí mật trong bàn tay là nhờ đó ta có thể tự tiết chế những tật xấu, sửa đổi những lỗi lầm và thúc đẩy, hoàn thành sáng kiến hay ý chí của ta.

Sứ mạng của bàn tay trái có một giá trị đặc biệt, trước những cạm bẫy có thể quật ngã chúng ta, bàn tay trái sẽ báo hiệu để chúng ta biết trước mà tránh đi hoặc bài trừ.

Trong bàn tay mặt, chúng ta lại tìm hiểu được ý chí của chính mình, khả năng của chính mình đang sử dụng và đã sử dụng mà vô tình mình không biết. Do đó, bàn tay trái và bàn tay mặt của một người, không bao giờ giống nhau, trường hợp này cũng xác nhận giữa người này với người khác, không hề khi nào có bàn tay giống nhau.

Điều tối cần trong việc nghiên cứu hai bàn tay trước nhất là so sánh hình thái bao quanh lòng bàn tay trái và lòng bàn tay mặt.

Kế đó quan sát các gò của đôi bên và hình dáng của những đường chỉ chính.

Trong tất cả các dấu vết trong lòng bàn tay, những đường chỉ là những giá trị tuyệt đối mà ta tìm thấy trong việc nghiên cứu một bàn tay. Chẳng hạn như tuỳ theo sự nảy nở hay tiết chế của tâm trạng, đường trí đạo sẽ biến đổi theo.

Giữa hai lòng bàn tay, kinh nghiệm chứng tỏ có sự tương phản rõ rệt với nhau. Trong nhiều trường hợp, đường trí đạo của bàn tay trái thật sâu chứng tỏ người có bản năng khuynh hướng, nhưng bàn tay mặt lại có đường trí đạo chìm lắng, làm cho bản năng ấy không thể thực hiện.

Trường hợp này cũng xảy ra ở đường tâm đạo. Nhiều đường tâm đạo ở lòng bàn tay trái chứng tỏ người giàu nhân ái thì ở lòng bàn tay mặt đường tâm đạo lại lu mờ gần như biến mất hoặc hướng về một chiều khác, khiến cho người giàu nhân ái lại trở thành ích kỷ.

Cũng có trường hợp đường định mệnh trong lòng bàn tay trái gần như lu mờ, tiên liệu sự thiếu may mắn trên đường đời của bàn tay. Trong lúc ấy ở lòng bàn tay mặt đường định mệnh rõ ràng, báo hiệu người sẽ vượt được tất cả trở lực.

Dù sao, việc nghiên cứu bàn tay cũng chứng tỏ rõ ràng định mệnh không phải là một sự khẳng định bất di bất dịch, mà là một trạng thái có thể có biến thể, nếu người có chủ định, biết tiết chế tật xấu, khoa trương bản năng.

Dĩ nhiên trường hợp của người sử dụng tay trái sẽ được nghiên cứu ngược lại. Còn về sự giải thích vì sao lại có người thuần sử dụng tay trái, hoặc sử dụng cả hai tay, thì mãi tới ngày nay vẫn chưa có một chứng minh gì quả quyết đích xác, ngoài việc xác nhận là do ảnh hưởng của thần kinh hệ.

Kinh nghiệm cho thấy khi ép buộc một người thuần sử dụng tay trái, phải dùng tay mặt, thường xảy ra nhiều hậu quả bi đát. Riêng về trẻ em, sự bắt buộc vô tình thay đổi các em trở thành nhút nhát đến tột độ và sự sử dụng tay mặt cũng hoá ra vụng về.

Ngày nay khác hơn thời xưa, những nhà mô phạm đã nhận ra trường hợp khiến các em trở thành dối láo, ăn cắp hoặc nhiều tính xấu khác, chung quy cũng vì chịu ảnh hưởng của sự bắt buộc nói trên. Cho nên phương pháp giáo dục hiện nay là để các trẻ em được tự nhiên sử dụng bàn tay thuận tiện của năng khiếu chúng nó, để tránh những tai hại đáng tiếc ấy.

NHỮNG GÒ TRONG LÒNG BÀN TAY

Lòng tay chứa đựng 7 Gò và gang bàn tay, gọi là Đồng:

- Gò Mộc tinh nằm dưới ngón trỏ xác định kỳ vọng và sự ham muốn.

- Gò Thổ tinh nằm dưới ngón giữa xác định sự hoạt động.

- Gò Thái dương nằm dưới ngón áp út xác định sự phô trương thực tài.

- Gò Thuỷ tinh nằm dưới ngón út xác định sự thông minh.

- Gò Thái âm nằm ở tận cùng lòng bàn tay phía trước ngón út xác định sức tưởng tượng và sự mơ ước.

- Gò Kim tinh nằm đối diện với gò Thái âm, dưới ngón cái, xác định tình cảm và sức khoẻ.

- Sau cùng gò Hoả tinh. Gò Hoả tinh chia làm 2 phần Hoả tinh âm nằm giữa 2 gò Thuỷ tinh và Thái âm, gò Hoả tinh dương nằm giữa 2 gò Mộc tinh và Kim tinh. Gò Hoả tinh dương xác định sự can đảm. Hoả tinh âm xác định chiều hướng bành trướng của sự can đảm ấy.

Sau cùng, liên đới ảnh hưởng với gò Hoả tinh là phần đất còn lại giữa các gò, là gang bàn tay, gọi là Đồng Hoả tinh. Vì liên đới ảnh hưởng với gò Hỏa tinh nên ý nghĩa của Đồng Hoả tinh là xác định tầm mức bành trướng của sự can đảm mà gò Hoả tinh sẵn có.

CÁC LOẠI CHỈ TAY

Có 2 loại chỉ tay trong một bàn tay, chỉ "chánh" và chỉ "phụ", hay đường lớn và đường nhỏ cũng thế.

Đường Sinh Đạo bao vòng theo gò Kim tinh xác định cuộc đời, bản năng, thực chất cũng như sinh hoạt.

Đường Trí Đạo nằm trên đường Sinh Đạo theo chiều rộng của lòng tay từ gò Hoả tinh dương đến Hoả tinh âm, xác định ý chí, bản tính và tâm linh.

Đường Tâm Đạo nằm vắt ngang qua lòng tay dưới các ngón, trên đường Trí Đạo xác định tính tốt hay tật xấu xuất phát từ tâm tư.

Đường Định Mệnh, hay Mạng Đạo cũng thế. Nó khởi sự từ cườm tay chạy thẳng về ngón giữa, hoặc ngắn hoặc dài. Đường Định Mệnh phác hoạ cuộc đời.

Đường Thái Dương hay đường Tài Đạo, nằm cạnh đường Sinh Đạo, hoặc trên gò Thái Âm hướng về ngón áp út. Đây mới thật là đường định mệnh trên thực tế. Nó xác định sự thành bại trên đường đời, danh vọng, tiền tài cũng như khả năng sinh hoạt.

Đường Sinh lực, hay Cang Đạo, hoặc đường Thuỷ Tinh cũng thế. Đường này phát xuất từ thân dưới lòng tay, gần khu vực đường Sinh Đạo chạy lên từ ngón út. Đường Sinh Lực xác định sức khoẻ, thời gian sống chết của người.

Đường Sinh Lý, hay đường Dâm dục, nằm ở bìa lòng tay trên gò Thái Âm. Nó xác định ảnh hưởng sinh lý và cá tính của đường Thuỷ tinh.

Đường Hôn Nhân đóng dưới ngón út, gần đường Tâm Đạo, xác định giá trị và hình thức của những cuộc hôn nhân.

Ngấn cườm tay, xác định tuổi thọ.

Ba đường Sinh Đạo, Trí Đạo và Tâm Đạo làm thành hình chữ M trong lòng tay. Ngoài ra còn những đường khác, thuộc loại "phụ" như đường Du lịch, đường Hỏa tinh, vòng Mộc tinh, vòng Kim Tinh, vòng Thổ tinh....sẽ được đề cập trong phần thực hành một cách đầy đủ.

HÌNH THỨC CÁC CHỈ TAY

Đường Rộng có nghĩa là tràn đầy, tượng trưng cho một con rạch nước vượt mức bình thường: đó là tình trạng ngập lụt. Do đó, đường rộng xác định tật xấu cũng như tính tốt thiếu chiều sâu, nghĩa là thiếu sự xét đoán, suy nghĩ.

Đường Cạn như một con rạch vô chừng, khúc sâu khúc cạn, cũng có thể là một cánh đồng hoang có nước chảy qua. Trong lòng tay đường cạn xác định tính cách mập mờ. Người sẽ có một định mạng mập mờ không nhất định, thiếu dứt khoát và cũng ngắn ngủi. Có thể chết bất đắc kỳ tử và mất tích.

Đường Sâu. Đây là một hình thức của con suối từ núi đổ xuống, ào ạt và mạnh, không một trở lực nào ngăn được. Đây cũng là một con rạch sâu, lòng rạch sâu mãi. Đường sâu xác định tính cách trường kỳ của nó, nghĩa là về tính tốt cũng như tật xấu, người vẫn lao mình vào hoặc gánh chịu nặng nề hay là tận hưởng trọn vẹn. Trên thực tế, đây là hình thức của sự gan liều, già dặn, giàu đức tính cũng như giàu tham vọng. Nếu đường sâu mầ có chiều hướng bất lợi, người sẽ luôn luôn gặp trở ngại, bão táp, nhưng chỉ trong thời gian ngắn và nhất định, hoặc chết một cách bất ngờ.

Đường Mỏng tượng trưng cho một đường nước lúc nào cũng chực cạn, nước chảy từng hồi. Đây là hình thức ham muốn ít gặp trở ngại nhất trong các đường.

Đường Dài là sông. Đường Ngắn là suối. Nó xác định thời gian và thời hạn xảy ra tính tốt hay tật xấu, nhưng không rõ ràng.

Đường Rõ. Đây là một mẫu đường chỉ đáng được hãnh diện. Nó xác định chắc chắn đức tính không sai chạy.

Đường Mờ có một ý nghĩa trái ngược với đường rõ. Mẫu đường này gần như rất khó nhận định.

Đường Thẳng. Đây là tượng trưng của một con sông nước chảy đều, không nhanh không chậm, có thể thả theo dòng nước không ngại lầm lạc. Nó xác định sự dễ dàng không bị trở ngại.

Đường Ngoằn Ngoèo. Đây là con suối chảy vào một nơi có nhiều chông gai và cũng có nhiều khoảng trống, thỉnh thoảng xuất hiện, thỉnh thoảng lặn mất. Trường hợp này là trường hợp của bàn tay có loại chỉ tay đa nghi.

Đường Nguyên Vẹn tượng trưng cho con kinh đào thẳng không bị ngăn cách, cũng không có nước tràn. Yên tịnh và trầm mặc là giá trị của loại chỉ tay này.

Đường Bị Cắt. Ngược lại với ý nghĩa của đường chỉ nguyên vẹn, ý nghĩa tai hại của chỉ tay này là sự nguy hiểm, gian lao, bệnh tật và chết chóc nữa. Một đoạn cắt có thể nguy hiểm nếu đoạn cắt này ở đường Sinh Đạo. Cần tránh sự lầm lẫn giữa đường bị cắt với đường đứt quãng. Đường bị cắt là một đường nguyên vẹn nhưng bị đứt ở một đoạn nào đó. Còn đường đứt quãng là nhiều khúc không liền nhau không thể xem là một đường.